Con đường đầu tiên phải kể đến là con đường mòn của thổ dân đã đưa bác sĩ Yersin đi từ Nha Trang ngược lên núi theo thung lũng sông Đa Nhim đến Đơn Dương (Dran) qua Fimnom, lên đèo Prenn rồi đến Đà Lạt. Lúc đó Yersin chỉ là nhà thám hiểm.
Tháng 10-1897, Toàn quyền Paul Doumer cử phái đoàn do đại úy pháo binh Thonard và ông Cunbac tìm hiểu Đà Lạt. Đến 1899, con đường đất từ Phan Rang lên Đà Lạt hoàn tất. Đó là con đường có 20km đèo dốc quanh co trong một khung cảnh non nước hữu tình được gọi là đèo Ngoạn Mục (Belle Vue) và đèo Dran dài 10km (con đường ấy sau mở rộng thành quốc lộ 11 - Đà Lạt - Phan Rang 108km; Đà Lạt - Nha Trang 219km).
Đường đèo rất dốc, quanh co, nguy hiểm, vòng lên vòng xuống, lượn đi lượn lại nhiều lần. Lên đến đỉnh đèo ở độ cao khoảng 1.000m, khí hậu á nhiệt đới mát mẻ có tác dụng phục hồi sức khỏe một cách nhanh chóng. Giữa đèo cao lộng gió du khách có cảm giác chơi vơi, say sưa ngây ngất đất trời. Tinh thần sảng khoái. Cơ thể dễ chịu. Dưới chân đèo là nhà máy thủy điện Đa Nhim, với hai ống nước khổng lồ, từ độ cao 1.000m nước đổ vào tuốc-bin nhà máy.
Cũng giống như đèo Bảo Lộc chỉ có lên mà không có xuống, nghĩa là du khách đi từ Phan Rang lên Đà Lạt cứ lên, lên mãi cho tới khi đặt chân đến đỉnh đèo. Từ đỉnh đèo nhìn trở lại đoạn đường vừa qua, tầm mắt mở rộng trải dài đến tít tận vùng biển xanh bao la. Trước mắt một thang mầu xanh phối hợp một cách hài hòa, tạo nên một cảnh đẹp thanh bình, êm ả. Rừng cây xanh đậm trên vách đá cheo leo. Xa xa là đồng lúa xanh ánh vàng rập rờn như sóng nước. Xa hơn nữa là mặt biển xanh màu ngọc bích trải dài vô tận.
Xe đưa du khách tiến vào Đà Lạt theo những con đường lượn sóng, khi lên, lúc xuống nhẹ nhàng. Rồi xe đi qua một quãng đường dài bằng phẳng của vùng Đơn Dương - Đức Trọng. Trước khi vào cửa ngõ thành phố Đà Lạt du khách phải vượt đèo Prenn uốn lượn. Đang từ quang cảnh đồng bằng, đến đèo, du khách sẽ có cảm giác nao nao khó tả. Xe vượt lên những con dốc, một bên là đèo cao, một bên là thung lũng sâu. Xa xa đồi núi chập chùng, những rặng thông ngút ngàn lao xao trong gió như vẫy chào.
Mãi đến năm 1932, đường Sài Gòn qua ngã ba Dầu Giây lên Định Quán, Bảo Lộc rồi qua Di Linh tới Đà Lạt mới được hoàn tất, hồi đó gọi là quốc lộ 20. Đến tháng 2-1943, đoạn đường từ thác Prenn lên Đà Lạt được cải tiến, bỏ đoạn đường cũ thay đường mới, theo một sườn núi khác. Đoạn đường mới này có lợi điểm rút ngắn chỉ còn 8,6km thay vì 14km như trước kia. Đến 1970, quốc lộ 20 và đoạn 21b nối liền quốc lộ 20 từ ngã ba Funbin đến Dran được sửa thành xa lộ.
Đi bằng xe hơi từ Sài Gòn lên Đà Lạt hết khoảng năm hay sáu tiếng đồng hồ và đó cũng là thời gian du lịch thật thú vị. Xe đưa du khách lần lượt qua xa lộ Biên Hòa, chạy xuyên qua những đồng lúa, những cánh rừng cao su ở Đồng Nai, những vườn dâu, vườn chè, cà phê ở Bảo Lộc, Di Linh, nông trường ở Đức Trọng và tiếp đến là những rừng thông xanh ngút ngàn, Đà Lạt hiện ra trước mắt du khách như một đóa hoa rực rỡ giữa núi rừng Lang Biang. Cái oi bức nóng nực và xô bồ của Sài Gòn đã biến mất đi tự lúc nào, giờ đây thân thời cảm thấy mát mẻ dễ chịu, tâm thời an lạc.
HỨA HOÀNH kế lại một chuyện trở ngại xảy ra trong khi tập trung dân Thượng làm phu đắp đường trong khu vực Di Linh đi Đà Lạt:
"Khi phát quang khu rừng dọc theo đường lộ, dân phu Thượng phát giác một thân cây to lớn nhiều người ôm không xuể mà họ gọi là “cây rắn thần”, bởi vì trong hang bọng cây có vô số rắn lớn nhỏ lúc nhúc đủ màu sắc. Viên kỹ sư làm đường yêu cầu triệt hạ cây ấy nhưng người Thượng từ chối, viện lẽ đó là một cây thiêng…
Viên công sứ theo lời kỹ sư làm đường ra lệnh đốn. Các kỹ sư Pháp lấy cỏ khô phủ quanh gốc cây rồi tẩm xăng đốt. Hàng trăm con rắn bò ra lổn ngổn khiến mọi người chạy tán loạn. Khi ngọn lửa bốc cao, rắn tập trung lên ngọn, huýt gió nghe rợn người. Từ các cành cao, rắn vặn mình đau đớn, phun ra những giọt nước như phông-tên. Dân Thượng giải thích đó là hiện tượng rắn thần Naga rời khỏi cây thiêng. Rồi họ bỏ làng đi sâu vào rừng, từ chối làm đường dù bị người Pháp hăm dọa bỏ tù. Cuối cùng viên công sứ Pháp đành phải cho làm con đường tránh sang bên. Mãi đến năm 1972, khi công binh Mỹ tân trang quốc lộ 20, họ đã dùng xe ủi san bằng gốc cây thành một đống lớn bên vệ đường.”
Từ Sài Gòn lên Đà Lạt bằng đường bộ chúng ta cũng có thể theo chân cô nữ sinh Trưng Vương NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG:
“Chúng tôi đi bằng xe đò nhỏ qua Biên Hòa. Tới Định Quán, nơi những tảng đá lớn chồng chất như thành lũy đồ sộ kiên cố hoặc nằm ngổn ngang hai bên đường, xe ngừng độ nửa giờ cho mọi người xuống giải lao.
Sau Định Quán, đường dần dần lên cao, lác đác dân Thượng đây đó. Xe qua những đồi trà bát ngát của Bảo Lộc. Khí hậu bắt đầu se lạnh. Dân bản thượng vẫn mình trần đội thổ sản cao nguyên đi ra, đi vào những con đường mòn mất hút trong rừng. Một cô gái ngực trần căng bóng như tượng đồng nâu, eo thon uyển chuyển, đội thúng đi bên đường. Tôi đang trầm tư, mặc tưởng cũng phải mỉm cười vì các hành khách trên xe trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, man dã.
Mưa rừng xuống, khói núi lên, mây mù trùng điệp…”
Nhà thơ cao niên TRÚC TIÊN ghi lại chuyến đi du lịch từ Nha Trang lên Đà Lạt bằng đường bộ vào năm 1962, khi bà 72 tuổi:
“Gia đình Kính và tôi từ Tân Sơn Nhất lên máy bay ra Nha Trang ở một bữa, sáng hôm sau đi xe hơi lên Đàlạt. Từ Nha Trang tới bãi biển Ba Ngòi không có gì lạ. Qua khỏi Ba Ngòi, lên đèo Ngoạn Mục là không khí đã đổi thay. Mây xám thấp, gió lùa hơi mát dịu, đường đèo quanh co cao thấp, xe lượn theo uốn éo như theo một con rắn khổng lồ, trông xuống thung lũng cây rậm bằng phẳng như tấm thảm nhung xanh màu lá mạ. Thỉnh thoảng có giòng suối trong veo chảy, lướt qua những ngàn thông thiên trùng vạn điệp của Tạo hóa mà sắp theo hàng lối như có bàn tay khéo léo sửa sang…
Xe len qua nhiều rừng rậm, lại thấy từng bụi trúc non mướt xanh tươi, uyển chuyển theo chiều gió ngả nghiêng, rải rác giữa rừng có những thứ cây lạ, không biết được tên, hoa trắng toát như bạch lan, còn điểm vào hoa vàng rực như hoàng cúc, cảnh thiên nhiên thanh tú đẹp lạ lùng! Nhìn hai bên giải Trường Sơn thăm thẳm liền chân mây trắng lững lờ trôi. Từng đồi thông cao thấp, từng đám cây rậm âm u, nơi nào cũng có nương chè lớp lớp, xếp hàng như tam cấp xanh um. Từng khoảnh rau xanh đậm xanh non vuông vức, ngoạn mục vô cùng.”
Ngược lại nếu rời Đà Lạt bằng đường bộ để về Sài Gòn thời chúng ta hãy theo chân cô giáo Trâm của NGUYỄN THỊ HOÀNG. Trong giai đoạn 60 - 70 ở Đà Lạt người ta thường được nghe đến tên của nhà văn nhà giáo này, với cuốn truyện đầu tay đã từng gây sôi nổi một thời đó là cuốn “Vòng tay học trò”. Tác phẩm đã từng gieo vào lòng các thiếu nữ Đà Lạt ngày đó những mộng mơ, bâng khuâng xao xuyến của tuổi còn cắp sách đến trường. Truyện ghi về mối tình giữa cô giáo và một chàng học trò như sau:
“Xe lên đến đèo Prenn, Trâm đọc hết bức thư bốn trang dài của Minh để lẫn vào hộp kẹo nhỏ. Nàng đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần đoạn cuối cùng không ngờ: “Mai cô đi rồi để lại em những lo lắng không nguôi, đầu óc trống rỗng, ý nghĩ khô khan, chữ nghĩa thiếu hụt. Biết lấy gì viết để cô hiểu và tin em yêu cô, yêu cuồng dại, yêu tha thiết, yêu với niềm lo sợ mất cô yêu bất chấp cả mấy thằng giáo sư trù mạt, yêu say mê, yêu liều lĩnh đến cùng. Mai cô đi rồi, để lại em với bao điều hối hận dày vò, tự trách đã si mê cuồng dại, đặt tình yêu không đúng chỗ, trót đã trèo cao. Vì dù sao, dù sao cô còn trẻ đẹp quí phái biết bao người âm thầm hay bộc lộ tình cảm đối với cô. Tỉ phú, giáo sư đại học, phi công, bạn đồng nghiệp hiện tại và còn nhiều, nhiều lắm... Còn em chỉ là một đứa học trò, mà tàn ác nhất lại là học trò trường cô dạy, hai bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn, đánh vỡ hết những gì làm mình thất vọng khổ đau, với vòng tay học trò không bao giờ ôm giữ nổi đời cô.”
Và đây là tâm trạng của cô giáo Trâm lúc đó:
“Người hành khách ngồi cạnh tò mò nhìn sang. Trâm xếp thư bỏ vào ví, thẫn thờ nhìn xuống thung lũng vàng úa dưới chân đèo. Lá cây ngàn biếc lục rạng rỡ chiếu lên nền da trời xanh thoảng nhạt mơ hồ. Nỗi buồn dịu nhẹ âm thầm bỗng trào lên hai mắt Trâm, những giọt nước ấm chảy dài xuống má môi như có ai đang âm thầm cúi xuống khóc trên mặt nàng. Lũng sâu như quay tít dưới con đường xe chạy. Một khắc Trâm bỗng điên cuồng muốn lao mình xuống đó, chạy như bay biến về thành phố tìm lại Minh. Và ôm Minh trong tay. Cho nụ cười nước mắt mái tóc hương hơi quyện lẫn vào nhau. Cho đời sống chấm dứt bình yên giây phút. Rồi sau đó, mọi điều xảy ra sao, không cần nữa. Cho Minh hiểu lòng một người đàn bà cô đơn, tình yêu còn mãnh liệt gấp trăm nghìn lần tình yêu của một người con trai vừa mới lớn. Nhưng chuyến xe vượt đèo vun vút lao đi và Trâm ngồi bất động như tượng đá, trong những cảm giác dạt dào nung nấu, cho Đà Lạt lùi dần, mất hút phía sau, lẫn vào màu xanh trùng điệp của núi đồi ký ức mê thiếp.”
Comments